Thứ Tư tuần XXIV Thường niên

Bậc lễ: thường

Màu phụng vụ: Xanh

Nghe MP3: 

Năm I

Năm II

Ca nhập lễ

Lạy Chúa, xin ban bình an cho những ai trông cậy vào Chúa, xin cho các tiên tri của Chúa được trung trực; xin nhậm lời cầu nguyện của tôi tớ Chúa, và của Israel dân Chúa.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa là Ðấng sáng tạo và điều khiển muôn loài, xin nhìn đến chúng con và cho chúng con biết tận tình thờ phượng Chúa, hầu luôn được cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương. Chúng con cầu xin…

Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tm 3, 14-16

“Thật lớn lao thay mầu nhiệm của tình thương”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.

Con thân mến, cha viết cho con những điều này, cha hy vọng ngày gần đây sẽ đến gặp con. Nhưng nếu cha còn trì hoãn, thì thư này giúp cho con biết phải cư xử thế nào trong nhà Thiên Chúa, là Hội thánh Thiên Chúa hằng sống, là cột trụ và nền tảng chân lý. Rõ thực lớn lao thay mầu nhiệm của tình thương, là mầu nhiệm đã được tỏ hiện trong xác thịt, minh chính trong Thánh Thần tỏ hiện cho Thiên Thần, rao giảng cho Dân Ngoại, kính tin trong thế gian, siêu thăng trong vinh hiển.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 110, 1-2. 3-4. 5-6

Ðáp: Vĩ đại thay công cuộc của Chúa (c. 2a).

Xướng: Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi!

Xướng: Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Người muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi.

Xướng: Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Người, cho tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước. Chúa tỏ cho dân Người thấy công cuộc quyền năng của Người, hầu ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân.

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 12, 31 – 13, 13

“Ðức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, anh em hãy cầu mong những ơn cao trọng hơn. Và tôi chỉ bảo anh em một con đường hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khoa học; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát hết gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi.
Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý. Bác ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.
Bác ái không khi nào qua đi, ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ, tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 32, 2-3. 4-5. 12 và 22

Ðáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).

Xướng: Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran.
Xướng: Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa.

Xướng: Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.

Alleluia: Tv 147, 12a và 15a

Alleluia, alleluia! – Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai lời Người xuống cõi trần ai. – Alleluia.

Phúc Âm: Lc 7, 31-35

“Chúng tôi đã thổi sáo mà các anh không nhảy múa, chúng tôi đã hát những điệu bi ai mà các anh không khóc”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Ta sẽ phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống ai? Họ giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng:
“Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa.
“Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc”.
Bởi vì khi Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: “Người bị quỷ ám”. Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: “Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”. Nhưng sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình”.

Ðó là lời Chúa.

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, xin nghe lời chúng con cầu nguyện và thương nhận những lễ vật này để hiến lễ mỗi người chúng con dâng mà tôn vinh Danh Thánh, giúp mọi người đạt tới ơn cứu độ. Chúng con cầu xin…

Ca hiệp lễ

Ôi Thiên Chúa, cao quý thay ân sủng của Ngài. Con người ta tìm nương tựa trong bóng cánh của Ngài.

Hoặc đọc:

Chén chúc tụng mà chúng ta cầm lên chúc tụng Chúa, là thông hiệp với máu Chúa Kitô, và tấm bánh mà chúng ta bẻ ra, là thông phần vào mình Chúa.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, xin làm cho sức mạnh của bí tích này tràn ngập chúng con cả hồn lẫn xác, để chúng con không còn sống theo những cảm nghĩ tự nhiên, nhưng luôn theo ơn Thánh Thần hướng dẫn. Chúng con cầu xin…

Suy niệm

ĐỨC GIÊ-SU PHÊ PHÁN VỀ THẾ HỆ CỦA NGƯỜI  (Lc 7,31-35)

1. Đức Giê-su phê phán sự cứng lòng và kiêu ngạo của người Do thái, đặc biệt các luật sĩ và biệt phái. Họ luôn tìm cách biện minh cho mình và trốn tránh sự thật. Ông Gio-an Tẩy Giả sống khắc khổ, họ bảo là quỷ ám. Còn Đức Giê-su sống giản dị, gần gũi, hòa đồng với dân, họ lại cho là một tay ăn nhậu, bê tha. Thế nhưng, sự hiện diện và yêu thương của Đức Giê-su càng chứng tỏ cho thấy họ thật ngoan cố và ác tâm. Nếu chúng ta cứng lòng không tin vào Đức Giê-su chúng ta cũng sẽ không nhận ra Người.

2. Đức Giê-su trách dân chúng thời đó, nhất là các biệt phái và luật sĩ thờ ơ lãnh đạm với Gio-an Tẩy Giả và đối với Ngài. Vì thế, Đức Giê-su dùng dụ ngôn lũ trẻ chơi ngoài đường phố để nói lên điều ấy. Cũng giống như ở Việt nam, trẻ em Do thái thường có những cuộc hát đối hơi khác Việt nam một chút. Các trẻ em thường chia làm hai phe: một bên xướng tiểu khúc hoặc vui hoặc buồn, còn bên kia họa lại điệu vui hay buồn với câu điệp khúc của những bài ca dao có sẵn. Nhưng nhiều khi gặp những kẻ nghịch ngợm, không cứ theo lệ quen, bên xướng, ca hát vui vẻ thì chúng lại phá đám bằng giọng bi ai, than khóc, hoặc ngược lại. Đôi khi có những đứa ương ngạnh đứng đấy mà không chịu làm theo. Thật là trống đánh xuôi kèn thổi ngược.

3. Đức Giê-su mượn hình ảnh nhóm trẻ chơi ngoài đường phố để nói lên thái độ trái nghịch của người Do thái. Chấp nhận cuộc chơi, nhưng khi tiếng sáo thổi lên thì lại không nhảy múa; chấp nhận diễn kịch, nhưng khi bài hát đưa đám được cất lên thì lại không khóc theo. Những người Do thái thời Đức Giê-su cũng có phản ứng  đối với Ngài không khác nào đám trẻ chơi ngoài đường phố này. Họ mong chờ Đấng Cứu Thế, Gio-an Tẩy Giả loan báo về Ngài, nhưng họ không chấp nhận nếp sống khổ hạnh của ông, họ bảo ông bị quỷ ám; Đức Giê-su khai mạc thời cứu thế bằng yêu thương, phục vụ, tha thứ, thì họ lại cho rằng Ngài là tên ăn nhậu, hòa nhập với phường thu thuế tội lỗi (Mỗi ngày 1 tin vui).

4. Thói thường, con người ta dễ lấy mình làm trung tâm và muốn áp đặt tư tưởng và hành động của mình lên người khác. Vì thế mà qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su dạy chúng ta đừng áp đặt người khác phải theo tư tưởng của mình.

Giống như bọn trẻ thổi sáo giả bộ đám cưới đòi người khác hát, ca bài đưa đám giả bộ buồn bắt người khác khóc theo… với một hoàn cảnh không thực tế. Trong ý thức hệ của người Do thái, họ vẽ ra trong tư tưởng của mình một lối sống kiểu biệt phái giả hình và đòi dân theo, họ quan niệm một thời kỳ cứu độ và một Đấng Mê-si-a giầu sang  chứ không khắc khổ kiểu Gio-an Tẩy Giả và làm bạn với bậc đế vương, chứ không phải hòa đồng chung bàn với người hèn kém. Từ đó họ không nhận ra được Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế. Với ý thức hệ như thế, họ không những bị trói buộc trong tư tưởng thiển cận của họ, không nhận ra được dấu chỉ của thời đại, mà còn bắt người khác phải suy nghĩ và hành động như họ, kể cả Đức Giê-su (Hiền Lâm).

5. Lối sống của Gio-an Tẩy Giả và của Đức Giê-su thật khác nhau. Gio-an nhiệm nhặt, còn Đức Giê-su thông thoáng cởi mở. Buồn cười là cả hai đều bị người Do thái chỉ trích, do chính lối sống của mỗi vị. Vạch ra cái “buồn cười” ấy ở đây, Đức Giê-su không chỉ nhằm xác nhận một kinh nghiệm về nhân tình thế thái: Ở sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười, ở hẹp người chê.Phải chăng Ngài còn hàm ý rằng không có một lối sống duy nhất tốt, mà có nhiều: mỗi người, theo ơn gọi của mình, sẽ đảm nhận một lối sống phù hợp với ơn gọi đó? Điều cốt yếu là cái động lực, cái hồn của lối sống mà mình đảm nhận (5 phút Lời Chúa).

6. Khi trò chơi Flappy Bird và tác giả của nó trở nên nổi tiếng, được giới truyền thông thế giới quan tâm, thì có hàng loạt ý kiến trái ngược như: ”ăn may chứ có gì hay” hoặc “game ngớ ngẩn thế mà sao lắm kẻ thích”;

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy những người Do thái đã có thái độ ghen tị với Đức Giê-su. Họ không những từ chối sứ điệp Tin Mừng của Đức Giê-su, mà còn có những lời chê bai, nhận xét xấu xa về Ngài. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta cũng dễ xét đoán và đánh giá người khác theo cái nhìn chủ quan của mình. Tệ hơn nữa, lắm khi vì đố kỵ trước những thành công của người khác mà chúng ta tìm mọi cách để bôi nhọ và làm suy giảm danh tiếng của họ.

7. TruyệnChủ quan, phiến diện.

Lúc 11 tuổi, đứa bé thường bảo rằng: ”Cha mẹ của tôi rất vĩ đại. Không có gì mà cha mẹ tôi không biết. Không có gì mà họ không làm được”.

Lên 16 tuổi nó nói: ”Cha mẹ tôi không vĩ đại như tôi tưởng, không phải cái gì họ cũng biết hoặc cũng có thể làm”.

Ba năm sau, nghĩa là khi lên 19 tuổi, học Đại học, nó phát biểu: ”Cha mẹ tôi thường cho rằng họ đúng, kỳ thực, kiến thức của họ so với kiến thức của tôi thì thua kém xa”.

Sau khi lập gia đình, nó được 24 tuổi, tốt nghiệp Đại học, nó phát biểu: ”Cha mẹ tôi không hiểu tuổi trẻ; thanh niên thì tiến bộ, còn họ lại bảo thủ”.

Năm 30 tuổi, có con cái, nó khám phá ra chân lý sau: ”Ở nhiều sự việc, cha mẹ thường có lý”.

Đến lúc nó được 50 tuổi, khi cha mẹ nó đều đã qua đời, nó không cầm được lòng và tuyên bố: ”Cha mẹ tôi đúng là những nhân vật tuyệt vời! Họ có đầu óc rất minh mẫn, xử sự rất hợp lý, hợp thời. Cha mẹ ơi, cha mẹ là các vị thần”!

                                                                             Lm Giu-se Đinh Lập Liễm

Nguồn: tonggiaophanhanoi.org